Lý trí trong những lĩnh vực nghiên cứu đặc biệt Lý_trí

Lý trí trong triết học  chính trị và đạo đức

Aristotle đã mô tả Lý trí(Với ngôn ngữ) như 1 phần của bản tính con người(human nature). Điều này có nghĩa là điều tốt nhất cho con người là sống tuân thủ theo cộng đồng("politically"), tức là một tập thể người về mặt kích cỡ và một thành phố nhỏ về mặt thể loại(khái niệm “polis” tại Hy Lạp). Ví dụ:

Vì vậy, con người là 1 loài động vật cộng đồng – politikon(political) tức là polis và animal tức là zōion- hơn hẳn các loài ong hay các loài sống theo bầy đàn. Tự nhiên, như chúng ta nói, không làm gì thừa thải, và con người cũng chỉ là những con vật sở hữu 1 ngôn ngữ nói của Lý trí(Logos). Giọng nói, tất nhiên, phục vụ cho sự biểu lộ sự đau đớn hay thoải mái; đó là lý do tại sao nó cũng được tìm thấy trong các loài động vật khác, vì bản tính của các loài này cũng có thể nhận thức được sự đau đớn và sự hài lòng biểu lộ điều này với các con còn lại. Nhưng ngôn ngữ nói này(logos) phục vụ cho việc làm rõ hơn những gì có lợi, những gì có hại, những gì hợp lý, những gì là không hợp lý. Vì nó là 1 nét đặc biệt của con người, khác với những loài động vật khác, nó có thể nhận thức điều xấu và điều tốt, vô lý và hợp lý, và những điều tương tự; 1 nhóm người với những nhận thức này cùng chung sống tạo nên một mái nhà chung hay 1 thành phố(polis). […]. Và như 1 điều hiển nhiên, vì vậy, 1 nỗ lực xây dựng cộng đồng này tồn tại trong mỗi người. Nhưng người đầu tiên thiết lập cộng đồng chịu trách nhiệm về những điều tốt lành nhất. Con người là loài vật tối cao trong các loài vật khi được hoàn thiện, vì vậy cũng chính con người là loài tồi tệ nhất xa rời với Luật pháp và Công lý. Lý do là bất công là điều khó giải quyết nhất khi con người được trang bị những vũ khí cho mình và những vũ khí mà con người có do Tự nhiên sắp đặt đi chung với sự thận trọng và đức hạnh, nhưng nó không thể sử dụng trong những cách trái ngược. Hậu quả là, Nếu mà con người thiếu đạo đức, con người sẽ là loài xấu xa và man rợ nhất, và khi nó hướng đến tình dục và thức ăn, những điều tồi tệ nhất. Nhưng công bằng là một cái gì đó mang tính chất chính trị(ở các thành phố), vì điều đúng là 1 sự chuẩn bị của 1 chính phủ, và điều đúng là sự hiểu những gì là công bằng(Chính trị của Aristotle 1253a 1.2. Bản dịch của Peter Simpson, những thuật ngữ Hy Lạp được chèn trong dấu ngoặc đơn.

Khái niệm bản chất tự nhiên của con người được gắn chặt trong cách này, được ngụ ý, theo một cách khác, rằng chúng ta có thể giải thích loại hình cộng đồng nào là luôn tốt nhất cho con người. Tranh luận này vẫn được duy trì như 1 tranh luận trung tâm trong tất cả lĩnh vực chính trị, đạo đức, tư tưởng đạo đức kể từ đó, và càng trở nên đặc biệt gây tranh cãi từ 2 sự kiện, đầu tiên, bài đàm luận thứ hai của Rosseau(Rousseau's Second Discourse), và thứ 2, học thuyết tiến hóa(Theory of Evolution) xuất hiện. Từ thời Aristotle đã có những nhận định rằng thành phố(polis) không luôn luôn tồn tại và cần được tạo ra  hay phát triển bởi chính con người, những ngôi nhà chung xuất hiện trước, rồi đến những ngôi làng thành phố chỉ là sự mở rộng của những cái có trước, và những thành phố đầu tiên hoạt động như thể người dân vẫn là những gia đình và các ông Vua đóng vai trò như những người Cha.

Tình bạn(friendship)[ philia] là rất bình thường trong cả giới nam và giới nữ dựa theo luật của Tự nhiên [kata phusin]; Vì con người có sự gắn kết[sunduastikon] tự nhiên[tēi phusei] nhiều hơn là sự gắn kết cộng đồng(political) [politikon = of the polis], cũng như gia đình(household) [oikos] là có trước và cần thiết hơn so với thành phố[polis] và trẻ con thì giống với các loài động vật. Trong những loài động vật khác, cộng đồng(community)[ koinōnia] sẽ không phát triển xa hơn điều này, nhưng con người sống bên nhau[sumoikousin] không chỉ vì nó quan trọng đối với trẻ con mà còn vì những điều khác phục vụ cuốc sống; Vì từ những khởi đầu công việc đã được phân chia và sự khác biệt giữa nam và nữ nên họ bổ sung cho nhau, đặt lợi ích riêng vào trong lợi ích chung [eis to koinon]. Vì những lý do này mà cà lợi ích[chrēsimon] và niềm vui[hēdu] được tìm thất trong mối quan hệ bạn bè(Nicomachean Ethics, VIII.12.1162a.(Bản dịch chữ thô với những thuật ngữ Hy Lạp được đạt trong dấu ngoặc vuông)

Rosseau trong bài Đàm luận thứ 2(Second Discourse) đã đưa ra 1 tuyên bố gây sốc cuối cùng rằng những văn bản truyền thống có những thứ hoàn toàn ngược lại: Với Lý trí, ngôn ngữ, những cộng đồng được tổ chức một cách hợp lý đã có sự phát triển hoàn toàn trong 1 quãng thời gian dài cũng như 1 kết quả của thực tế là một số thói quen của sự hợp tác được tạo ra để giải quyết một số vấn đề nhất định, và là mỗi lần sự hợp tác này trở nên quan trọng hơn, nó buộc con người phát triển dần những sự hợp tác phức tạp – thường là để bảo vệ bản thân họ từ những người khác.

Trong những phát biểu khác, theo Rosseau, Lý trí, ngôn ngữ và cộng đồng tốt không phát triển vì bất kì quyết định có ý thức nào hay 1 kế hoạch của con người cũng như Chúa trời, cũng không phát triển vì những bản chất tự nhiên tồn tại trong con người. Vì vậy, ông tuyên bố, chung sống trong 1 cộng đồng có tổ chức như cộng đồng người hiện đại là 1 sự phát triển với nhiều yếu tố tiêu cực khi yếu tố này được so sánh với nguồn gốc của loài người là loài khỉ. Nếu có bất cứ điều gì là đặc biệt của con người trong học thuyết này, thì nó là sự linh hoạt và khả năng thích ứng của con người. Những điểm đặc biệt trong tính cách con người dưới góc nhìn nguồn gốc động vật của con người, sau này, được ủng hộ bởi Thuyết tiến hóa(Theory of Evolution) của Darwin.

Mặc dù vậy, 2 lý thuyết đối lập về nguồn gốc của Lý trí có giá trị đối với chính trị và đạo đức vì, theo học thuyết của Aristotle, Sống tập thể-một cách sống tốt nhất- tồn tại độc lập với hoàn cảnh Lịch sử. Theo Rosseau, chúng ta thậm chí nên nghi ngờ Lý trí, ngôn ngữ và chính trị là những cái tốt đẹp, như  1 sự đối lập với những lựa chọn đơn giản tốt nhất được gửi đến những sự phát triển nên làm hướng đến ngày hôm nay. Học thuyết của Rosseau, cho rằng bản tính con người là mềm dẻo hơn là cứng nhắc, luôn được sử dụng để ngụ ý, ví dụ với Karl Marx, rằng có 1 khả năng sống tập thể tốt hơn lối sống tập thể truyền thống đã được biết.

Tuy nhiên, khi mà những ảnh hưởng ban đầu của Rousseau thúc đẩy những cuộc cách mạng đẫm máu chống lại nền chính trị truyền thống, bao gồm Cách mạng Pháp và Cách mạng Nga, thì những kết luận của ông về những cộng đồng tốt nhất dường như lại quá truyền thống, trong những thành phố như Geneva, và 1 cuộc sống tại nông thôn

Tâm Lý học

Những nghiên cứu mang tính khoa học về Lý trí được thực hiện trong Tâm lý học và khoa học nhận thức. Các nhà Tâm lý học  nỗ lực để khám phá liệu có hay không  khả năng suy nghĩ hợp lý trong những hoàn cảnh khác nhau

Việc đánh giá một người có thể lý luận tốt như thế nào là 1 chủ đề của việc xác định mức độ hợp lý của 1 người hay mức độ hợp lý trong hành động của người đó. Nó là 1 câu hỏi nghiên cứu chính trong tâm lý học Lý trí. Khả năng lý luận thường được chia thành Khả năng lý luận lý thuyết và khả năng lý luận thực hành một cách cân bằng với nhau.

Khảo sát cách ứng xừ trên Lý trí của con người

Các nhà tâm lý học về nhận thức thực nghiệm thực hiện nghiên cứu trên ứng xử Lý trí. Những khảo sát này có thể tập trung, ví dụ, vào việc con người thể hiện như thế nào thông qua những bài test về Lý luận như bài test IQ và và bài kiểm tra trí thông minh, hay thông qua bài kiểm tra về suy nghĩ lý luận của con người đúng với Logic học ở mức độ nào(xem, ví dụ, bài test của wason). Những cuộc khảo sát làm như thế nào thực hiện những suy luận từ những điều kiện, ví dụ, nếu A thì B và làm như thế nào họ thực hiện những suy luận về những lựa chọn, ví dụ, A hay 1 phương án B khác. Họ kiểm tra cách nhận thức của chúng ta về mối quan hệ không gian và quan hệ thời gian, ví dụ, A nằm bên trái của B, hay A diễn ra sau B, và về sự khăng định số lượng, ví dụ, Tất cả A là B. Những khảo sát kiểm tra làm như thế nào con người thực hiện những suy luận về những tình huống thực tế, những khả năng giả định, mức độ, khả năng đặt những giả thiết ngược với thực tế (counterfactual situations)

Những nghiên cứu mới về Lý trí của trẻ em

Những nhà tâm lý học ngày nay kiểm tra sự phát triển của Lý trí trẻ em từ lúc sinh cho tới tuổi trưởng thành. Học thuyết về sự phát triển nhận thức của Piaget là học thuyết đầu tiên về sự phát triển của Lý tri. Sau đó, nhiều học thuyết thay thế khác được đề cập, các học thuyết này cũng gồm học thuyết về sự phát triển nhận thức của phái Tân Piaget.

Khoa học thần kinh của Lý trí

Các chức năng sinh học của não bộ được nghiên cứu bởi các nhà thần kinh học(neurophysiologists) và các nhà tâm thần học(neuropsychologists). Những nghiên cứu trong lĩnh vực này bao gồm nghiên cứu về cấu trúc và chức năng của một bộ não hoạt động bình thường và một bộ não bị hư hỏng hay nói cách khác là một bộ não không bình thường. Ngoài ra, nó còn thực hiện nghiên cứu Lý trí, một vài nhà tâm lý học, ví dụ, nhà tâm lý học lâm sàng và nhà tâm lý học trị liệu làm việc đề thay đổi thói quen suy luận khi việc suy luận này là vô ích.

Khoa học máy tính

Trong lĩnh vực khoa học máy tính và trí tuệ nhân tạo, các nhà nghiên cứu sử dụng cách suy luận tự động(automated reasoning) cho những ứng dụng đa dạng gồm ứng dụng tự động chứng minh mệnh đề toán học(automated theorem proving), ngữ nghĩa chính thức về ngôn ngữ lập trình(formal semantics of programming languages) và đặc điểm kỹ thuật chính thức trong công nghệ phần mềm(formal specification in software engineering).

Siêu lý luận

Siêu lý luận(meta-reasoning) là Lý luận về Lý trí. Trong khoa học máy tính, một hệ thống thực hiện siêu Lý luận khi nó lý luận về hoạt động của chính nó. Điều này yêu cầu 1 chức năng của ngôn ngữ lập trình về sự phản ánh(a programming language capable of reflection), một khả năng phát hiện và điều chỉnh cấu trúc va cách hoạt động của chính nó.

Sự phát triển của Lý trí

Một giống loài có thể có nhiều lợi ích to lớn từ một khả năng suy luận tốt hơn trong việc dự đoán và hiểu về thế giới. Nhà xã hội học và khoa học nhận thức Dan Sperber, cùng với cộng sự của ông Hugo mô tả 1 ý tưởng rằng có thể đã có những nguồn sức mạnh to lớn điều khiển sự phát triển của Lý trí. Sperber chỉ ra rằng Lý trí của con người rất khó sừ dụng để đưa vào hành động một cách hiệu quả, và rằng rất khó cho mỗi cá nhân nghi ngờ niềm tin của chính họ. Lý trí thật sự hiệu quả nhất khi nó được sử dụng trong 1 tập thể và sự thành công của việc nghiên cứu khoa học là 1 bằng chứng cho điều đó. Sperber nói điều này có thể đề cập rằng không chỉ cá nhân mà sự chọn lọc nhóm(group selection) cũng ảnh hưởng đến việc gây áp lực. Bất kì nhom nào được tổ chức một cách cẩn thận để sử dụng Lý trí có hiệu quả sẽ có được nhiều lợi ích cho tất cả thành viên trong nhóm, điều đó tăng sự phù hợp(fitness) của nhóm. Điều này cũng có thể giúp giải thích tại sao con người, theo Sperber, không thể sử dụng Lý trí một cách hiệu quả nhất một cách đơn độc. Patricia Cohen, viết cho tờ New York Times, tóm tắt một vài suy nghĩ của Mercier trên “Lý thuyết Lý Luận”("Argumentative Theory") này(cái mà Lý trí được điều chỉnh cho phù hợp với sự thuyết phục). Đối với Cohen, Cohen cho rằng con người suy nghĩ như những luật sư: họ trung thành với một bên và trao đổi cho đến khi chân lý được tìm ra.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Lý_trí http://cogsci.uwaterloo.ca/Articles/Pages/%7FAbduc... http://www.britannica.com/EBchecked/topic/346240/p... http://www.merriam-webster.com/dictionary/logic?sh... http://www.merriam-webster.com/dictionary/rational http://www.merriam-webster.com/dictionary/reason http://www.merriam-webster.com/dictionary/reasonab... http://www.sciencedaily.com/releases/2002/01/02013... http://socrates.berkeley.edu/~hdreyfus/rtf/Limits_... http://www.perseus.tufts.edu/hopper/text?doc=Perse... http://www.perseus.tufts.edu/hopper/text?doc=Perse...